Atlas các bệnh Răng Hàm Mặt – Chương 9 phần 1/2

9780323582933

Các mặt bệnh trong chương:

Phần 1

  • Recurrent Aphthous Stomatitis / Viêm miệng áp-tơ tái phát
  • Minor Aphthous Stomatitis / Viêm miệng áp-tơ nhỏ
  • Major Aphthous Stomatitis / Viêm miệng áp-tơ lớn
  • Herpetiform Aphthous Stomatitis / Viêm miệng áp-tơ dạng herpes
  • Behçet Syndrome / Hội chứng Behçet
  • Transient Lingual Papillitis / Viêm nhú lưỡi thoáng qua
  • Allergic Contact Stomatitis to Toothpaste / Viêm miệng tiếp xúc do dị ứng thuốc đánh răng
  • Oral Lichenoid Reactions to Amalgam / Phản ứng lichen trong miệng với amalgam
  • Oral Sarcoidosis

Phần 2

  • Orofacial Granulomatosis
  • Granulomatosis With Polyangiitis / U hạt với viêm đa mạch (Wegener Granulomatosis)
  • Angioedema / Phù mạch
  • Chronic Mucosal Drug Reactions / Phản ứng thuốc niêm mạc mạn tính
  • Contact Stomatitis to Cinnamic Aldehyde / Viêm miệng do tiếp xúc với Cinnamic Aldehyde

Recurrent Aphthous Stomatitis / Viêm miệng áp-tơ tái phát

Recurrent Aphthous Stomatitis (Viêm miệng áp-tơ tái phát) là một trong những bệnh lý trong miệng phổ biến nhất với tỷ lệ lưu hành được báo cáo là khoảng 20%. Các tổn thương dường như là một phản ứng qua trung gian miễn dịch trong đó có sự phá hủy niêm mạc do tế bào lympho T gây độc tế bào (CD8+). Nhiều yếu tố kích hoạt đã được mô tả, có thể được phân loại thành một trong ba nhóm: nhạy cảm với kháng nguyên, niêm mạc mỏng đi hoặc rối loạn điều hòa miễn dịch. Trái ngược với nhiễm virus herpes simplex tái phát trong miệng, các tổn thương hầu như chỉ xảy ra trên niêm mạc không liên kết với xương. Các phương pháp điều trị thông thường đối với các trường hợp nhẹ bao gồm thuốc gây tê tại chỗ, chất phủ hoặc chất bít kín, chất đốt tại chỗ, đốt laser, sát trùng (ví dụ: chlorhexidine gluconate), dung dịch kháng sinh (ví dụ: tetracycline hoặc minocycline), và nước súc miệng và gel corticosteroid tại chỗ. Điều trị thể nặng bao gồm corticosteroid toàn thân, colchicine, dapsone, thalidomide, pentoxifylline, kháng thể đơn dòng trực tiếp chống lại yếu tố hoại tử khối u và nhiều loại khác. Có ba biến thể lâm sàng: nhỏ, lớn và herpetiform.

Minor Aphthous Stomatitis / Viêm miệng áp-tơ nhỏ

Minor aphthous stomatitis (Viêm miệng áp-tơ nhỏ) là biến thể phổ biến nhất cho đến nay, quan sát ở hơn 80% bệnh nhân bị ảnh hưởng (bởi viêm miệng – ND). Tổn thương thường bắt đầu như một dát đỏ mềm tiến triển thành vết loét màu vàng rất đau được bao quanh bởi viền ban đỏ. Các vết loét có đường kính thay đổi từ 3 đến 10 mm và thường lành trong vòng 7 đến 14 ngày. Mặc dù có dạng lan toả nhưng hầu hết bệnh nhân có từ 1 đến 5 tổn thương mỗi đợt. Áp-tơ nhẹ có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp hơn ở trẻ em và thanh niên. Tần suất tái phát rất thay đổi.

 

■ Hình 9.1 Minor Aphthous Stomatitis

(A) Vùng loét vàng khu trú với ban đỏ xung quanh viền bên của bên phải lưỡi. (B) Vùng ổ loét ở niêm mạc di động tiền đình hàm trên phía trước bên phải.

 

■ Hình 9.2 Minor Aphthous Stomatitis   Viêm miệng áp-tơ nhỏ

Nhiều vết loét trên mặt lưng của lưỡi.

Major Aphthous Stomatitis / Viêm miệng áp-tơ lớn

Viêm miệng áp-tơ lớn (bệnh Sutton, viêm quanh răng hoại tử niêm mạc tái phát [PMNR]) ít phổ biến hơn nhiều so với biến thể nhỏ và gặp ở 10% đến 15% bệnh nhân bị ảnh hưởng. Các tổn thương có đường kính thay đổi từ 1 đến 3 cm, mất từ 2 đến 6 tuần để khỏi và có xu hướng để lại sẹo khi lành. Bệnh có xu hướng khởi phát sau tuổi dậy thì và thường tiếp tục trong nhiều thập kỷ trừ khi có thể loại bỏ được yếu tố kích hoạt liên quan. So với áp-tơ nhỏ, áp-tơ lớn có khả năng kháng trị liệu cao hơn và thường cần điều trị mạnh hơn tại chỗ hoặc toàn thân.

 

 

■ Hình 9.3 Major Aphthous Stomatitis Viêm miệng áp-tơ lớn

Loét lớn niêm mạc khẩu cái mềm bên phải.

Herpetiform aphthous stomatitis (viêm miệng áp-tơ dạng herpes)

Herpetiform aphthous stomatitis (Viêm miệng áp-tơ dạng herpes) là biến thể ít phổ biến nhất của viêm miệng áp-tơ, ghi nhận ở 5% đến 10% bệnh nhân. Cái tên này không có nghĩa là có liên quan đến virus herpes simplex. Danh pháp này được chọn vì mô hình loét niêm mạc giống như đã thấy ở herpes. Tuy nhiên, có thể phân biệt dễ dàng hai mặt bệnh này dựa theo vị trí giải phẫu xuất hiện. Áp-tơ không hay xuất hiện ở niêm dính với xương. Ngược lại, virus herpes simplex nguyên phát luôn biểu hiện sự liên quan và nhiều triệu chứng ở lợi, trong khi nhiễm herpes simplex tái phát có xu hướng ảnh hưởng đến lợi dính hoặc vòm miệng cứng. Các áp-tơ dạng herpes thường riêng lẻ, kích thước nhỏ với đường kính từ 1 đến 3 mm. Ngược lại với các biến thể khác, số lượng vết loét mỗi lần tái phát có xu hướng cao, thường lên tới 100. Các tổn thương thường lành trong vòng 7 đến 10 ngày, nhưng các đợt tái phát thường rất gần nhau. Các vết loét có xu hướng biểu hiện dưới dạng bệnh nhẹ, đáp ứng với liệu pháp corticosteroid tại chỗ. Hỗn dịch uống lỏng thường thích hợp hơn gel vì sự phân bố rộng rãi của các tổn thương.

■ Hình 9.4 Herpetiform Aphthous Stomatitis  Viêm miệng áp-tơ dạng herpes

Vô số vết loét nhỏ và các cụm vết loét liên kết với nhau ở niêm mạc môi trên.

Behçet Syndrome (Hội chứng Behçet)

Năm 1937, một bác sĩ da liễu người Thổ Nhĩ Kỳ, Hulusi Behçet, đã mô tả một hội chứng đặc trưng bởi loét miệng, loét sinh dục và viêm màng bồ đào tái phát. Theo thời gian, người ta thấy rõ là hội chứng Behçet là một bệnh biểu hiện toàn thân có thể ở da, khớp, mạch máu, tim, phổi, đường tiêu hóa và thần kinh. Mặc dù nguyên nhân vẫn chưa được biết, nhưng người ta đã đưa ra giả thuyết rằng hội chứng này do phản ứng miễn dịch bất thường, kích hoạt bởi phản ứng chéo với một hoặc nhiều tác nhân lây nhiễm và các mô chủ của cá nhân dễ mắc bệnh di truyền. HLA B51 có liên quan chặt chẽ với căn bệnh này. Mặc dù hội chứng này xuất hiện trên toàn thế giới, nhưng tỷ lệ mắc bệnh cao nhất dọc theo con đường tơ lụa cũ, kéo dài từ Nhật Bản đến các quốc gia Trung Đông và Địa Trung Hải, với tần suất cao nhất được thấy ở quê hương Thổ Nhĩ Kỳ của Behçet.

Các vết loét miệng trông tương tự như áp-tơ nhỏ, lớn hoặc dạng herpes và hay biểu hiện ở vòm miệng mềm và hầu họng. Các vết loét sinh dục thường liên quan đến môi lớn và bìu. Những thay đổi về da phổ biến nhất là ban đỏ giống như ban đỏ hoặc tổn thương sẩn mụn mủ. Có hai bộ tiêu chuẩn chẩn đoán phổ biến. Bộ tiêu chuẩn đầu tiên là loét miệng tái phát cộng với hai trong số các triệu chứng sau: (1) loét sinh dục tái phát, (2) tổn thương ở mắt, (3) tổn thương da hoặc (4) thử nghiệm pathergy dương tính (phản ứng bất thường của da đối với vết chích bằng kim vô trùng). Bộ tiểu chuẩn khác sử dụng hệ thống điểm, với tổng cộng 4 điểm cần thiết để chẩn đoán xác định. Mỗi tổn thương ở miệng, bộ phận sinh dục và mắt được tính 2 điểm; còn các tổn thương ở da, liên quan đến mạch máu, các biểu hiện thần kinh và thử nghiệm pathergy dương tính, mỗi tổn thương được tính 1 điểm.

 

■ Hình 9.5 Behçet Syndrome

Vết loét lớn, sâu ở niêm mạc má trái.

■ Hình 9.6 Hội chứng Behçet

Loét bìu.

Transient lingual papillitis / Viêm nhú lưỡi thoáng qua

Transient lingual papillitis (viêm nhú lưỡi thoáng qua) đề cập đến sự mở rộng cấp tính và tạm thời của một hoặc nhiều u nhú dạng nấm. Mặc dù chưa rõ nguyên nhân nhưng quá trình này có liên quan đến kích ứng mạn tính, tổn thương do nhiệt, sử dụng nhiều thuốc lá hoặc rượu, thức ăn cay hoặc chua, dị ứng, rối loạn tiêu hóa, thay đổi nội tiết tố theo chu kỳ, thiếu ngủ và căng thẳng.

Quá trình này có thể khu trú ở một hoặc một số nhú ở một khu vực biệt lập hoặc toàn thể với nhiều nhú thay đổi liên quan đến một phần đáng kể của lưỡi. Các u nhú bị ảnh hưởng xuất hiện ban đỏ, trắng hoặc vàng, có thể đau hoặc không. Ở hầu hết các bệnh nhân, các nhú gây đau và có biểu hiện tăng sản viêm. Người ta cũng báo cáo những trường hợp mô hình toàn thể lan sang các thành viên khác trong gia đình. Bên cạnh các biến thể phổ biến, có một biến thể sẩn toàn thân trong đó các nhú biến đổi không đau và có màu trắng do tăng sừng quá mức.

Các biến thể triệu chứng của viêm nhú lưỡi thoáng qua thường hết trong vòng 4 ngày. Một số bệnh nhân đã cắt bỏ các tổn thương bằng bấm móng tay. Ngoài việc loại bỏ yếu tố nguy cơ, phương pháp điều trị được khuyến nghị bao gồm thuốc gây tê cục bộ, chất phủ (coating agent), nước súc miệng sát trùng và corticosteroid tại chỗ.

■ Hình 9.7 Transient Lingual Papillitis / Viêm nhú lưỡi thoáng qua

Nhú hình nấm mở rộng, màu vàng và đau ở mặt trước bên phải của lưỡi.

■ Hình 9.8 Transient Lingual Papillitis / Viêm nhú lưỡi thoáng qua

Nhiều u nhú hình nấm to và đau ở mặt lưng của bên phải lưỡi.

 

Allergic Contact Stomatitis to Toothpaste / Viêm miệng tiếp xúc do dị ứng thuốc đánh răng

Intraoral allergic contact stomatitis (stomatitis venenata / Viêm miệng dị ứng tiếp xúc) phát sinh từ nhiều loại kháng nguyên. Nếu thứ phát do một thành phần trong kem đánh răng, biểu hiện phổ biến nhất là viêm môi có hoặc không có chàm vùng da quanh miệng. Môi bị ảnh hưởng có cảm giác khô và thường xuất hiện ban đỏ nhẹ, nứt hoặc nứt nhẹ. Ít gặp hơn là ban đỏ, sưng, loét cục bộ hoặc các vùng xói mòn trên nướu, lưỡi hoặc các bề mặt niêm mạc khác. Đôi khi, lớp bề mặt của biểu mô niêm mạc miệng và tiền đình có thể bong tróc không có triệu chứng.

Phản ứng với kem đánh răng xảy ra ở cả hai giới nhưng nhiều hơn ở nữ giới. Thời gian sử dụng trước khi ghi nhận những thay đổi ở niêm mạc có thể từ dưới 2 tuần đến vài năm. Ở hầu hết các bệnh nhân bị ảnh hưởng, những thay đổi rõ ràng khi thay thế kem đánh răng bằng baking soda hoặc kem đánh răng không có hương liệu, chất bảo quản và natri lauryl sulfat.

 

■ Hình 9.9 Allergic Contact Stomatitis to Toothpaste / Viêm miệng tiếp xúc do dị ứng thuốc đánh răng

Các dải biểu mô bong ra màu trắng, dạng sợi và rời ra ở tiền đình hàm dưới bên trái.

Oral Lichenoid Reactions to Amalgam / Phản ứng lichen trong miệng với amalgam

Phản ứng dạng lichen ở miệng đề cập đến các tổn thương niêm mạc giống với lichen phẳng về mặt lâm sàng và vi thể, nhưng chúng có thể liên quan đến một yếu tố căn nguyên cụ thể. Các nguyên nhân thường được đề cập bao gồm các bệnh toàn thân khác, phản ứng thuốc, dị ứng thực phẩm và tiếp xúc niêm mạc với vật liệu phục hồi răng. Nhiều loại vật liệu nha khoa có thể dẫn đến phản ứng dạng lichen, nhưng gặp hầu hết ở amalgam. Thử nghiệm vá da đối với các kim loại trong hỗn hống đã được chứng minh là dương tính không nhất quán, có thể do một số ví dụ là thứ yếu do tác dụng kích thích cục bộ của thủy ngân hơn là dị ứng toàn thân. Cutaneous patch testing to the metals within amalgam has proven to be inconsistently positive, possibly because some examples are secondary to the local irritant effect of mercury rather than a systemic allergy.

Mặc dù lichen phẳng và một số phản ứng dạng lichen khác thường di chuyển, đối xứng và hai bên, nhưng phản ứng lichen với amalgam thường không di cư và khu trú tại vị trí tiếp xúc. Niêm mạc bị thay đổi có thể xuất hiện dưới dạng một mảng màu đỏ hoặc trắng, có hoặc không có vân và xói mòn. Mặc dù nhiều bệnh nhân có cải thiện nhanh chóng sau khi loại bỏ amalgam, một số tổn thương sẽ tự khỏi dần trong vài tháng.

■ Hình 9.10 Lichenoid Reaction to Amalgam / Phản ứng lichen trong miệng với amalgam

Mảng trắng bất thường của niêm mạc miệng ở vị trí tiếp xúc với phục hình amalgam lớn ở răng hàm lớn thứ hai hàm trên bên phải.

Oral Sarcoidosis

Sarcoidosis (u hạt) là một bệnh toàn thân được đặc trưng bởi viêm u hạt không hoại tử. Rối loạn này là vô căn; tuy nhiên, bằng chứng cho thấy có phản ứng miễn dịch bất thường đối với các tác nhân lây nhiễm hoặc môi trường ở những người dễ mắc và có tính di truyền.

Mặc dù bất kỳ vị trí giải phẫu nào cũng có thể bị ảnh hưởng, nhưng phổi, hạch bạch huyết, da và mắt thường xuất hiện nhất. Tổn thương miệng không phổ biến, nhưng khi xuất hiện, chúng có thể dẫn đến chẩn đoán ban đầu. Bất kỳ vị trí niêm mạc nào cũng có thể bị ảnh hưởng, biểu hiện dưới dạng dát, sẩn hoặc khối dưới niêm mạc màu nâu đỏ, đỏ tía hoặc màu bình thường. Các tổn thương trong xương cũng có thể gặp và biểu hiện dưới dạng thấu quang không rõ viền và có thể đi kèm tình trạng lung lay răng.

Vì phần lớn các trường hợp u hạt đều hồi phục tự nhiên, nên chỉ điều trị toàn thân ở trường hợp nặng hoặc tiến triển. Corticosteroid là liệu pháp đầu tay, sau đó là các thuốc ức chế miễn dịch khác hoặc thuốc chống sốt rét. Khi khu trú, tổn thương niêm mạc miệng thường được cắt bỏ, trong khi tổn thương xương được nạo triệt để.

 

■ Hình 9.11 Sarcoidosis / U hạt  Các dát đỏ nâu ở vòm miệng mềm.

 

■ Hình 9.12  Sarcoidosis / U hạt

Vùng thấu quang không rõ ranh giới ở răng hàm lớn thứ nhất hàm trên bên phải. (Courtesy Dr. Chad Matthews.)

 


Để đọc toàn bộ chương 9, bạn có thể chuyển khoản 30.000 VNĐ (1 cốc cafe nâu đá) về STK 7881088 VPBANK với nội dung: atlas 9 và email, hoặc inbox phía dưới.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *