Điều trị chỉnh nha răng nanh ngầm cả hai bên

Bệnh sử và nguyên nhân

Một cậu bé 13 tuổi 8 tháng được chuyển từ nha sĩ tổng quát để tư vấn chỉnh nha (Hình 1). Lý do đến khám là chậm mọc cả hai răng nanh vĩnh viễn hàm trên, răng nanh sữa không rụng (Hình 2-3). Tiền sử nha khoa và y khoa không có gì đặc biệt. Bệnh nhân đã được điều trị và đạt kết quả tốt như minh hoạ ở Hình 4-10, quy trình điều trị sẽ được phân tích kỹ hơn ở phần sau.

Phim panorama và các ảnh 3D (Hình 4) cho thấy có hai răng thừa và hai răng nanh vĩnh viễn ngầm, một về phía khẩu cái (phải) và một về phía môi (trái). Nguyên nhân lệch lạc răng được cho là hướng mọc răng bất thường của cả hai răng nanh trên, có thể do sự hiện diện của răng thừa ngầm (Hình 4-5).

Chẩn đoán

Xương:

  • Tương quan xương loại I (SNA 78°, SNB 74°, ANB 4°)
  • Góc mặt phẳng hàm dưới cao (SN MP 36°, FMA 31°)

Răng:

  • Tương quan răng hàm loại II đối đầu bên phải
  • Tương quan răng hàm loại II toàn múi bên trái và cắn chéo hoàn toàn về phía má
  • Độ cắn chìa 3,5 mm; độ cắn trùm 3,5 mm
  • Răng nanh trên bên phải ngầm lệch gần-trong
  • đổi chỗ với răng cửa bên (Hình 4)
  • Răng nanh trên bên trái ngầm lệch gần-ngoài và thân răng nằm ở phía trong răng 21 (Hình 4)
  • Răng cửa bên hàm trên bên trái chìa (răng 22)
  • Các răng cửa bên hàm trên có hình chêm
  • Hai răng thừa ngầm ở vùng khẩu cái trước của hàm trên
  • Răng 17 lệch má
  • Chỉ số lệch lạc DI của ABO là 24, tương ứng nhóm sai khớp cắn nặng (DI>20)

Mặt

  • Kiểu mặt lồi
  • Vẩu môi trên vừa phải, chấp nhận được

Hình 1 Ảnh chụp mặt trước điều trị

Hình 2 Ảnh chụp trong miệng trước điều trị

Hình 3 Mẫu nghiên cứu trước điều trị

Hình 4 Ảnh 3D trước điều trị nhìn từ phía trước

Hình 5 Phim toàn cảnh và sọ nghiêng trước điều trị

Các mục đích điều trị

Hàm trên (cả ba mặt phẳng):

  • Trước-sau: Cho phép tăng trưởng bình thường
  • Đứng: Cho phép tăng trưởng bình thường
  • Ngang: Duy trì

Hàm dưới (cả ba mặt phẳng):

  • Trước-sau: Cho phép tăng trưởng bình thường
  • Đứng: Cho phép tăng trưởng bình thường
  • Ngang: Duy trì

Răng hàm trên

  • Trước-sau: Sửa chữa nghiêng trục răng 22, tăng độ chìa của các răng cửa
  • Đứng: Dàn thẳng các răng nanh ngầm, cho phép trồi lên theo tăng trưởng
  • Chiều rộng liên răng hàm / liên răng nanh: Giải quyết chen chúc và sửa cắn chéo răng 17 và 26.

Răng hàm dưới

  • Trước-sau: Đánh lún các răng cửa
  • Đứng: Cho phép trồi lên theo tăng trưởng
  • Chiều rộng liên răng hàm / liên răng nanh: Sửa chữa nghiêng lưỡi răng 37, làm tăng chiều rộng ngang liên răng nanh

Thẩm mỹ khuôn mặt: Duy trì dạng mặt lồi với môi trên nhô vừa phải nhưng đóng kín

Hình 6 Ảnh chụp mặt sau điều trị

Hình 7 Ảnh chụp trong miệng sau điều trị

Hình 8 Mẫu nghiên cứu sau điều trị

Hình 9 Phim toàn cảnh và sọ nghiêng sau điều trị

PHIM ĐO SỌ
XƯƠNG
TRƯỚC SAU KHÁC
SNA° 78° 78°
SNB° 74° 76°
ANB° -2°
SN-MP° 36° 37°
FMA° 31° 32°
RĂNG
1T NA mm 2,4 mm 4,8 mm 2,4 mm
1T SN° 94° 103°
1D NB mm 2,8 mm 3,6 mm 0,8 mm
1D MP° 90° 90°
KHUÔN MẶT
Đường E (trên) 1,0 mm 1,0 mm 0 mm
Đường E (dưới) 1,5 mm 1,5 mm 0 mm

Hình 10 Chồng phim

Kế hoạch điều trị

Các răng nanh sữa và răng thừa ngầm được nhổ bỏ. Do không chen chúc quá nặng, điều trị không nhổ răng được chỉ định. Vào thời điểm bắt đầu điều trị, khoảng được tạo ra bằng lò xo và cắn chéo về phía má được sửa chữa bằng cách mắc chun chéo ở bên cắn chéo và nâng khớp ở bên đối diện để mở khớp cắn (Hình 11). Phương pháp điều trị đối với răng ngầm lệch về phía môi là kỹ thuật của Leite và đối với răng ngầm lệch về phía khẩu cái, áp dụng khuyến cáo của Kokich. Hình 12 ghi lại diễn biến hồi phục và dàn thẳng răng nanh hàm trên bên phải, và Hình 13 cho thấy mở khớp cắn nhờ nâng khớp để sửa chữa cắn chéo răng hàm. Hình 14 là chuỗi phim X quang trình bày quá trình sửa chữa sự đổi chỗ của răng cửa bên và răng nanh hàm trên bên phải và Hình 15 cho thấy cách dùng lò xo torque. Đối với các răng cửa bên hình chêm, do hình dạng của chúng vẫn có thể chấp nhận được nên không cần phải phục hồi lại, nhưng kích thước răng nhỏ gây ra một số khó khăn trong giai đoạn hoàn thiện, sẽ được phân tích ở phần sau. Sử dụng khí cụ chỉnh nha cố định phối hợp với hai minivis để dàn thẳng hàng răng.

Hình 11 a Sửa chữa cắn chéo bằng chun phối hợp với dây CuNiTi 0.14 ở cung răng dưới. b Núm lưỡi trên mặt lưỡi của răng 36, nâng khớp trên mặt nhai của răng 46.

Răng nanh ngầm lệch về phía khẩu cái được bộc lộ bằng phương pháp rạch để hở. Với răng nanh ngầm lệch về phía má, sử dụng kỹ thuật mọc răng đóng với một núm dán và chun chuỗi. Để kéo răng nanh ngầm, một minivis được cắm gần đường khớp giữa khẩu cái và minivis thứ hai được cắm vào trụ dưới gò má bên trái. Sử dụng chun chuỗi để kéo các răng nanh ngầm. Cần dùng lò xo torque để chỉnh chân răng nghiêng về phía má của cả răng 13 và 22.

Ngày phẫu thuật                             8,5 tháng

0 ngày                                 15 tháng

2 tháng  18 tháng

5 tháng  21 tháng

Hình 12 Các ảnh chụp trong miệng cho thấy quá trình dàn thẳng răng 13.

Sử dụng núm lưỡi và nâng khớp răng sau, phối hợp với chun chéo để sửa chữa cắn chéo răng sau.

Chun loại II được sử dụng để giải quyết lệch lạc theo chiều đứng-dọc và các thao tác bẻ dây chi tiết sẽ tạo ra khớp cắn cuối cùng. Tháo khí cụ cố định và duy trì hàm răng hoàn thiện bằng khí cụ duy trì cố định răng trước ở cả hai cung răng.

Khí cụ và quá trình điều trị

Mắc cài Damon D3MX 0,022″ độ torque thấp (Ormco) được lựa chọn. Hai đoạn lò xo mở được đặt giữa các răng cửa giữa và răng hàm nhỏ thứ nhất để tạo khoảng cho các răng nanh hàm trên ngầm. Giai đoạn đầu không gắn mắc cài lên các răng cửa bên hàm trên. Một núm lưỡi được gắn lên răng 36, mắc chun chéo vào răng 26, và nâng khớp bằng composite trên răng 46 để sửa cắn chéo vào ngày điều trị đầu tiên (Hình 11).

Hình 13 Nâng khớp trên răng 43 với lực nén 16M.

Phẫu thuật bộc lộ răng nanh hàm trên bên phải ngầm về phía khẩu cái được tiến hành ở tháng thứ 4 của quá trình điều trị. Hai tháng sau, thân răng đã tự mọc được nhiều hơn một nửa quãng đường tới mặt phẳng cắn, do đó gắn hai núm lên nó để kéo thêm và giúp kiểm soát sự xoay răng. Một minivis được cắm cách đường khớp giữa khẩu cái  2-4 mm, nằm ở phía trong răng 16, và mắc chun chuỗi để di xa răng nanh. Hình 12 trình bày các bước điều trị để dàn thẳng răng nanh ngầm về phía khẩu cái.

Trước điều trị                                    15 tháng

1 tháng kéo           22,5 tháng

3,5 tháng               29.5 tháng

9 tháng                                  Tháo mắc cài

Hình 14 Các phim X quang cho thấy quá trình sửa chữa chuyển vị.

Mở khớp cắn là cần thiết để tạo điều kiện di chuyển răng nanh về phía môi. Độ torque chân răng được điều chỉnh bằng một mắc cài độ torque thấp (hoặc mắc cài độ torque cao lộn ngược) và một lò xo torque (Hình 13-14). Sau 15 tháng kéo, thân răng về tới vị trí mong muốn. Nhưng cần thêm 14 tháng nữa để di chuyển chân răng với trình tự dây cung CuNiTi .013, CuNiti .016, CuNiTi .014x.025 và TMA .017x.025 (Hình 15).

Hình 15 Lò xo torque với lực nén 21.5M.

Với răng nanh ngầm bên trái, sử dụng kỹ thuật mọc răng đóng, gắn một núm và mắc chun chuỗi vào tháng thứ 6 của quá trình điều trị (Hình 16). Sau khi lành thương, hướng chun chuỗi kéo về phía nhai và phía xa bằng một cánh tay đòn đi từ minivis trụ dưới gò má. Trong các lần tái khám sau đó, vòng xoắn ốc được điều chỉnh mà không cần phải tháo cánh tay đòn, sau 5,5 tháng, răng nanh trái được gắn vào dây cung CuNiTi .014 (Hình 17).

Hình 16 Phẫu thuật mọc răng đóng và một tuần sau đó.

Chun loại II được sử dụng để sửa chữa tương quan loại II ở răng hàm và răng nanh. Chun đứng được sử dụng trong giai đoạn hoàn thiện và tinh chỉnh. Sau 36 tháng điều trị tích cực, các khí cụ được tháo ra.

Hình 17 a Các phim X quang minh hoạ quá trình kéo răng nanh trái. 1 tuần sau phẫu thuật – 2 tháng – 5,5 tháng

Hình 17 b Các ảnh chụp trong miệng minh hoạ quá trình kéo răng nanh trái. 3 tuần sau phẫu thuật – 4 tháng – 5,5 tháng

Kết quả đạt được

Hàm trên (cả ba mặt phẳng)

  • Trước – sau: Mở rộng tối đa nhờ tăng trưởng
  • Đứng: Mở rộng tối đa nhờ tăng trưởng
  • Ngang: Duy trì

Hàm dưới (cả ba mặt phẳng)

  • Trước – sau: Mở rộng tối đa nhờ tăng trưởng
  • Đứng: Mở rộng tối đa nhờ tăng trưởng
  • Ngang: Duy trì

Răng hàm trên:

  • Trước – sau: Tăng độ nghiêng của các răng cửa
  • Đứng: Trồi cung răng, các răng nanh ngầm được bộc lộ và dàn thẳng tối ưu
  • Chiều rộng liên răng hàm / răng nanh: giảm chiều rộng liên răng hàm nhờ sửa cắn chéo về phía má

Răng hàm dưới:

  • Trước – sau: Duy trì
  • Đứng: Trồi các răng hàm lớn và răng cửa
  • Chiều rộng liên răng hàm / liên răng nanh: Mở rộng phía sau do răng hàm lớn thứ nhất bên trái được dựng thẳng trục

Thẩm mỹ khuôn mặt: Đạt được nét mặt nghiêng hài hoà với môi đóng kín

Hình 18 a Ảnh chụp trong miệng nhìn từ bên trái, b Vùng răng sau bên trái nhìn từ phía má, c Vùng răng sau hàm trên bên trái nhìn từ phía khẩu cái.

Duy trì

Khí cụ duy trì cố định hàm trên 2-2 và khí cụ duy trì cố định hàm dưới 3-3 được gắn lên mỗi răng. Ép một máng duy trì trong suốt hàm trên. Bệnh nhân được chỉ dẫn đeo máng toàn thời gian trong 6 tháng đầu và sau đó chỉ đeo vào buổi tối. Hướng dẫn bệnh nhân vệ sinh răng miệng và bảo quản các khí cụ duy trì.

Đánh giá sau khi kết thúc điều trị

Đánh giá mẫu-phim theo ABO đạt 26 điểm. Điểm trừ lớn nhất là các gờ bên không đều (7 điểm) và mất một số điểm tiếp xúc nhai (8 điểm) trên các răng hàm lớn bên trái (Hình 18).

Các răng nanh ngầm được dàn thẳng tối ưu sau điều trị, cấu trúc lợi hài hoà, và độ lồi chân răng hợp lý (Hình 19). Trên phim X quang, sự dàn thẳng chân răng là lý tưởng, nhưng có một số vị trí tiêu xương tại răng 13 và 12. Ngoại tiêu chóp chân răng tới 3mm ở răng 11-22, trong khi chân của các răng 13, 12, 23 trở nên tù (Hình 20).

Hình 19 Ảnh chụp cận cảnh các răng phía trước sau điều trị

Hình 20 Phim Xquang sau điều trị

Tương quan răng hàm và răng nanh đều là loại I. Độ cắn chìa và độ cắn trùm thấp hơn mức lý tưởng (Hình 21), nhưng chấp nhận được, vì răng các cửa bên hàm trên hình chêm không được phục hình lại (Hình 19, 21).

Hình 21 Độ cắn chìa và độ cắn trùm giảm sau điều trị

Hình 22 Minivis cắm cách đường khớp 3mm.

Tóm lại, kết quả điều trị cho ca khó này là vừa ý đối với cả bệnh nhân và nha sĩ.

Thảo luận

Với bệnh nhân có răng nanh ngầm, chỉ nên nhổ răng ở các răng bị dính khớp, nội tiêu hoặc ngoại tiêu chân răng trầm trọng, vẹo răng (gập góc) quá mức, biểu hiện các thay đổi bệnh lý, và các răng mà nếu di chuyển bằng chỉnh nha có thể làm hại răng bên cạnh. Trên bệnh nhân này, cần phải bảo tồn các răng nanh ngầm nằm sai vị trí. Khó khăn đó là phải thiết kế một hệ thống lực để có thể đạt được một kết quả tốt về thẩm mỹ, chức năng và mô nha chu lành mạnh, mà không gây tổn thương răng bên cạnh.

Với răng nanh ngầm về phía khẩu cái, Kokich đề nghị một kỹ thuật để bộc lộ sớm răng nanh ngầm và cho phép tự mọc, trước khi bắt đầu kéo răng tích cực bằng chỉnh nha. Khi không thể sờ được răng ngầm, cần chỉ định chụp phim cắt lớp vi tính cone beam (CBCT) để thiết kế đường vào bằng phẫu thuật. Nếu không, phẫu trường có thể sẽ quá lớn.

Các phim CBCT cho thấy răng nanh ngầm bên phải chuyển vị hoàn toàn với răng cửa bên nằm gần kề (Hình 4). Thông tin này rất hữu ích để thiết kế trường mổ sao cho hạn chế kích thước của vết mổ. Bộc lộ răng ngầm bằng phẫu thuật được tiến hành ở tháng thứ 4 của quá trình điều trị. Việc này có thể được thực hiện cùng lúc với nhổ các răng thừa ngầm. Điều này sẽ giúp giảm thời gian điều trị phẫu thuật và chỉnh nha.

Minivis cắm ở khẩu cái rất hiệu quả khi kéo thân răng nanh ra xa các răng cửa. Thay vì cắm vis ở đường khớp giữa khẩu cái, vị trí cách đường khớp 3 mm là vị trí tốt nhất cho lực lưu giữ cơ học cao nhất. So với các vùng khác của vòm miệng, vùng này có đủ độ dày xương và cấu trúc đặc hơn ở đường khớp (Hình 22). Đầu của vis được đặt ngang mức mặt nhai để tránh lực đánh lún răng nanh. Ngoài ra, nếu các răng sau hàm trên bên phải được sử dụng để kéo răng nanh về phía sau, có thể sẽ mất neo giữ, tương quan loại II trên răng hàm có thể trở nên tồi tệ hơn và đường giữa hàm trên sẽ lệch sang trái do hiệu ứng chèo thuyền (Hình 23). Hơn nữa, hai núm gắn trên răng nanh sẽ giúp kiểm soát sự xoay răng.

Hình 23 Hiệu ứng chèo thuyền = tăng độ cắn chìa + mất lưu giữ cơ học

Kiểm soát torque và độ nghiêng chân răng cho răng nanh chuyển vị là các thách thức khó khăn. Có một số phương pháp để giải quyết các vấn đề này: 1. gắn mắc cài độ torque thấp (hoặc mắc cài độ torque cao lộn ngược) ở vị trí làm nghiêng răng về phía gần; 2. bẻ torque ở đoạn dây cung chạy trong mắc cài răng nanh; 3. dùng lò xo torque. Phương pháp hiệu quả nhất để đạt độ torque hợp lý đó là sử dụng lò xo torque chân răng. Ngoài ra, có thể dùng lò xo sớm hơn với các dây cung chữ nhật tương đối nhỏ như CuNiTi .015 x .025, hoặc mài tròn đoạn dây cung đi qua răng nanh với dây cung chữ nhật to bằng đá mài xanh ở giai đoạn muộn của quá trình điều trị (Hình 24b), việc này có thể rút ngắn thời gian điều trị và mang lại kết quả tốt và ổn định hơn. So sánh với ca của Dr. Halazonetis trình bày năm 2009, anh ta tốn 62 tháng để sửa chữa răng chuyển vị với cơ chế phức tạp và kết thúc với khớp cắn và lợi bị tổn thương. Trong ca này, không cần phải thiết kế khí cụ hoặc bẻ dây cung phức tạp, răng nanh chuyển vị vẫn được sửa chữa với cơ chế đơn giản (Hình 15). Một lưu ý quan trọng cần phải ghi nhớ trong đầu đó là gắn dây cung vào hai răng chuyển vị luân phiên nhau trong giai đoạn đổi chỗ chân răng. Lò xo torque điều chỉnh độ nghiêng trục răng nanh trên rất hiệu quả (Hình 24). Sửa chữa chuyển vị răng thường là thử thách lớn. Để tránh tổn thương chân răng, tốt nhất là kéo răng nanh ngầm trước khi gắn và dàn thẳng các răng cửa. Có thể xảy ra cản trở khớp cắn khi răng nanh di chuyển về phía môi, do đó nên mở khớp bằng cách nâng khớp hoặc dùng tấm cắn trong giai đoạn này (Hình 13).

Hình 24 a Lò xo torque trên răng 13 và 22. b Mài tròn đoạn dây cung nằm giữa lò xo torque.

Phương pháp phẫu thuật ảnh hưởng lớn tới kết quả về mô mềm đối với răng ngầm về phía môi. Có ba kỹ thuật bộc lộ: rạch để hở, vạt đẩy về phía chóp (APF), và kỹ thuật mọc răng đóng. Kokich khuyến cáo dùng APF khi thân răng nanh ngầm nằm trên chân răng cửa bên. Niagara và cộng sự cho rằng răng ngầm về phía môi có thể có bản xương mỏng hơn, và do đó nguy cơ mất bám dính cao hơn nếu bộc lộ bằng APF. Vì lý do đó, kỹ thuật mọc răng đóng được lựa chọn trong ca này và xương nằm trên đường đi dự kiến của răng nanh được mài bằng mũi khoan xương trong phẫu thuật để tạo điều kiện di chuyển răng nanh (Hình 16). May mắn là tình trạng nha chu cuối cùng gần như lý tưởng.

Hình 25 Minivis thép không gỉ 2×12 mm và cánh tay đòn

Sau phẫu thuật mọc răng đóng, một lực kéo về phía nhai và phía xa được tạo ra với chun chuỗi mắc vào cánh tay đòn (Hình 25), đi từ minivis cắm ở trụ dưới gò má. Ở các lần tái khám, khí cụ được tái kích hoạt bằng cách cắt bớt mắt của chun chuỗi hoặc điều chỉnh cánh tay đòn. Không gắn mắc cài và dây cung vào răng cửa bên nằm kế cận cho đến khi răng nanh đã được di chuyển ra xa khỏi nó. 6 tháng sau, răng nanh trái được dàn thẳng vào cung răng thành công, trái ngược với quan điểm của Dr. Becker và Dr. N. Dykstein trong quyển The Orthodontic Treatment of Impacted Teeth, rằng dàn thẳng hàng bằng chỉnh nha thường không thể thực hiện được với răng nanh ngầm có chân nằm ở phía môi so với chân răng cửa bên và thân nằm ở phía khẩu cái so với răng cửa giữa.

Cắn chéo răng sau về phía má được sửa chữa trong 3 tháng đầu với một núm lưỡi, nâng khớp và chun chéo. Phương pháp này đã được chứng minh là một cơ chế hiệu quả để kiểm soát vấn đề chức năng trên trong giai đoạn sớm của quá trình điều trị.

Như đã đề cập phía trên, các răng cửa bên hàm trên hình chêm không được phục hình lại. Lựa chọn này sẽ dẫn đến khó khăn trong khi hoàn thiện dàn thẳng hàng các răng trước hàm trên mà không tạo ra các khoảng hở kẽ răng. Cần phải giảm độ cắn trùm và độ cắn chìa. May mắn là kết quả cuối cùng chấp nhận được với cả bệnh nhân và nha sĩ.

Trong điều trị các bệnh nhân với răng nanh ngầm và răng cửa bên hình chêm, tiêu chân răng luôn là một mối quan tâm lớn. So sánh hình dạng chân răng của các răng cửa hàm trên trước và sau điều trị cho thấy rằng các chân răng cửa trở nên tù hoặc biểu hiện tiêu chân bất thường (Hình 26). Dưới các điều kiện trên, ngoại tiêu chóp chân răng được cho là nằm trong giới hạn chấp nhận được. Tuy nhiên, cần đảm bảo rằng không có sang chấn khớp cắn lên các răng cửa ở vị trí cuối cùng. Nếu không, ngoại tiêu chóp chân răng có thể tiếp diễn sau điều trị. Ngoài ra, chiều cao mào xương ổ răng bị giảm với răng cửa bên và răng nanh bên phải. Tình trạng này dường như sẽ không tiến triển thêm nhưng cần phải được theo dõi chặt chẽ.

Hình 26 Phim cận chóp cho thấy tiêu chân răng sau điều trị.

Đánh giá mẫu-phim theo ABO đạt 26 điểm nằm trong giới hạn chấp nhận được. Điểm trừ lớn nhất đó là các gờ bên không đều (7 điểm) và không đạt được các điểm tiếp xúc nhai ở phía má các răng hàm lớn bên trái (8 điểm) (Hình 18) do tác dụng phụ di xa răng bởi minivis (Hình 24). Để đạt được kết quả cuối cùng thật hoàn hảo, cần lấy dấu trước khi tháo mắc cài và đối chiếu với bản đánh giá mẫu-phim của ABO để xem xét một cách hệ thống. Trong ca này, việc lấy dấu và đánh giá được thực hiện 5 tháng trước ngày tháo mắc cài và điểm số lúc đó là 42 (Hình 27). Sau khi xem xét cẩn thận và điều chỉnh, điểm số giảm xuống còn 26 điểm nhờ gắn lại một số mắc cài và điều chỉnh dây cung chỉ trong 5 tháng, làm cho ca này đáp ứng được giới hạn cho phép. Tóm lại, kết quả là rất tốt nếu xem xét mức độ trầm trọng của sai khớp cắn. Kết quả tối ưu đạt được sau 36 tháng, đây là một khoảng thời gian tương đối ngắn khi xét đến các răng ngầm khó, và đặc biệt là chuyển vị răng. Ca lâm sàng này cho thấy một phương pháp sáng tạo để giải quyết một loạt các vấn đề phức tạp trên cùng một bệnh nhân.

Hình 27 Mẫu hàm để phân tích CRE phục vụ tinh chỉnh.

Về điều trị duy trì, khí cụ duy trì cố định hàm trên không mở rộng tới các răng nanh trên (Hình 26). Phương pháp này sẽ duy trì được sự thẳng hàng của các răng cửa, nhưng vẫn cho phép các răng nanh hoạt động chức năng độc lập. Điều này là rất quan trọng do các răng ngầm trước đây có xu hướng bị lún. Nếu chúng được liên kết với các răng cửa bằng một khí cụ duy trì cố định, toàn bộ khối răng trước hàm trên có thể bị lún xuống do khuynh hướng tái phát của răng nanh ngầm.

Kết luận

Với các răng ngầm về phía khẩu cái, rạch bộc lộ để hở sớm nhất có thể để cho phép mọc tự nhiên là một phương pháp điều trị hiệu quả. Với một răng nanh ngầm về phía môi nằm trên ranh giới lợi niêm mạc, có chân răng gối lên chân của răng cửa bên nằm gần kề, phương pháp mọc răng đóng, sử dụng cánh tay đòn gắn vào vis, là phương pháp tốt nhất để đạt được sự lành mạnh nha chu tối ưu.

Để tránh, hoặc ít nhất là giảm thiểu tiêu chân, cần trì hoãn gắn mắc cài và dây cung vào răng nằm kế cận răng ngầm, cho đến khi răng ngầm được kéo di chuyển ra xa khỏi chân răng kế cận. Phương pháp này cho phép răng kế cận tự do di chuyển ra khỏi đường đi của hướng kéo răng ngầm, do đó tránh hoặc ít nhất là giảm thiểu tiêu chân răng.

Kiểm soát độ torque của răng nanh ngầm đã dàn thẳng là không khó khăn bằng cách lựa chọn mắc cài phù hợp và sử dụng lò xo torque.

Minivis cắm ngoài xương ổ răng sẽ mang lại neo giữ tuyệt vời cho cơ chế chuyên biệt dùng để kéo răng ngầm và sửa chữa chuyển vị. Khí cụ neo giữ tạm thời này cho phép di chuyển các răng ngầm và răng chuyển vị mà không gây tác dụng phụ không mong muốn lên các răng kế cận.

Ca lâm sàng này cho thấy  các răng ngầm về phía khẩu cái và phía môi có thể gặp trên cùng một cung răng. Chiến lược điều trị phải được xem xét riêng rẽ để tránh trở ngại hai phía và thu được kết quả tối ưu.

1 comment

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *