Các dung dịch bơm rửa ống tủy là phần tiếp theo trong serie Newsletter trình bày kiến thức cơ bản nội nha lâm sàng của American Association of Endodontists. Làm sạch bằng bơm rửa là một bước hết sức quan trọng quyết định sự thành công của điều trị tủy. Hãy luôn ghi nhớ một điều: dù máy móc công nghệ có tiên tiến tới đâu, dù bạn có dùng file tay hay file máy, điều quan trọng nhất phải làm được đó là làm sạch ống tủy!
Chẩn đoán, tạo hình, hàn tủy và phục hình là các bước chính trong điều trị răng bị bệnh về tủy và quanh chóp. Loại bỏ hoặc giảm thiểu đáng kể chất kích thích và ngăn chặn tái nhiễm ống tủy sau khi điều trị là những yếu tố quan trọng cho kết quả thành công. Mặc dù trong vòng vài năm gần đây có nhiều cải tiến các khía cạnh khác nhau trong nội nha để bảo tồn răng tự nhiên, mục tiêu chính của nội nha vẫn là loại bỏ vi sinh vật trong hệ thống ống tủy và ngăn chặn tái nhiễm sau điều trị. Niềm tin phổ biến rằng hàn tủy không đủ là nguyên nhân chính dẫn tới thất bại trong nội nha đã được chứng minh là sai lầm vì hàn tủy phản ánh sự đầy đủ trong bơm rửa và tạo hình. Nói cách khác, thứ mà bạn lấy ra khỏi ống tủy có thể quan trọng hơn những gì bạn đặt vào.
Cái gì là chất kích thích mô tủy và mô quanh chóp?
Nguyên nhân chính của các bệnh lý tủy và quanh chóp đó là các chất kích thích sống và không sống. Nhóm không sống bao gồm các chất kích thích cơ học, nhiệt và hóa học. Nhóm sống bao gồm nhiều loại vi sinh vật như vi khuẩn, nấm và virus. Khi những thay đổi bệnh lý xảy ra ở mô tủy, không gian ống tủy có được khả năng trú ngụ chất kích thích phong phú bao gồm vài chủng vi khuẩn, cùng với chất độc và sản phẩm phụ của chúng. Nghiên cứu trên động vật và bệnh nhân cho thấy bệnh lý tủy và/hoặc bệnh lý quanh chóp không phát triển nếu không có sự hiện diện của vi khuẩn (1,2). Công nghệ nuôi cấy vi khuẩn và công nghệ sinh học phân tử cho thấy viêm nhiễm ban đầu do đa vi sinh vật (10-30 chủng vi khuẩn) trong tự nhiên và do vi khuẩn kị khí bắt buộc thống trị (3). Sự phong phú của vị sinh vật trong ống tủy ở răng đã được điều trị tủy với tổn thương quanh chóp dai dẳng bị giới hạn (1-3 chủng) so với viêm nhiễm ban đầu (do chủng E.faecalis thống trị – một cầu khuẩn gram dương kị khí không bắt buộc kháng cự lại các thuốc đặt nội nha), có thể tạo lớp màng sinh học và có khả năng xâm nhập ống ngà (4). Do sự có mặt của vi khuẩn ảnh hưởng xấu tới kết quả điều trị tủy (4-6), nên trong suốt quá trình điều trị phải trừ diệt tận gốc viêm nhiễm.
Điều gì gây trở ngại trong việc loại bỏ các chất kích thích khỏi hệ thống ống tủy?
Độ phức tạp của hệ thống ống tủy, ống ngà chân răng phong phú, các loại vị khuẩn xâm lấn ống ngà, sự hình thành lớp mùn ngà trong quá trình sửa soạn và mô ngà là những trở ngại chính trong việc đạt được mục tiêu hoàn thành bơm rửa và tạo hình hệ thống ống tủy (7). Kiểm tra bằng kính hiển vi cho thấy hệ thống ống tủy là hệ thống bất thường và phức tạp với nhiều ngõ cụt, đường rãnh và ống tủy bên (Hình 1a và 1b).
Hình 1a: Giải phẫu bên trong của răng hàm lớn thứ hai hàm trên sau khi khử canxi, khử nước và ngâm trong mực tàu. (Hình ảnh do Dr.JV Baroni Barbizam cung cấp)
Hình 1b: Hình ảnh phim cắt lớp vi tính (microcomputed tomography) đoạn eo ống tủy (canal isthmuses) ở chân gần của răng hàm lớn hàm dưới. (Hình ảnh do Dr. L.Gu cung cấp)
Trong chân răng, các ống ngà nối từ tủy tới đường nối cement-ngà (Hình 2). Các nhà nghiên cứu báo cáo sự có mặt của vi khuẩn trong các ống ngà (Hình 3) ở các răng bị nhiễm khuẩn khoảng một nửa khoảng cách giữa thành ống tủy và đường nối cement-ngà (7). Sự có mặt của quần thể tự nhiên này là yếu tố quan trọng cho nha sĩ trong việc cân nhắc trong quá trình bơm rửa và tạo hình hệ thống ống tủy (8,9). Bên cạnh những trở ngại tự nhiên còn có lớp mùn ngà sinh ra do quá trình bơm rửa và sửa soạn thành ống tủy (7). Lớp mùn ngà này (Hình 4) bao gồm các thực thể hữu cơ và vô cơ cùng với các mảnh vỡ của quá trình tạo ngà, vi sinh vật và mảnh vỡ hoại tử.
Hình 2: Hình ảnh trên kính hiển vi điện tử quét ống ngà chạy từ lớp tiền ngà tới cement.
Hình 3: Hình ảnh trên kính hiển vi điện tử quét ống ngà chứa vi sinh vật.
Hình 4: Lớp mùn ngà bao gồm các thực thể hữu cơ và vô cơ cùng với các mảnh vỡ của quá trình tạo ngà, vi sinh vật và mảnh vỡ hoại tử.
Các dung dịch bơm rửa ống tủy và thuốc đặt ống tủy được sử dụng trong suốt quá trình điều trị tủy để tiếp cận được phức hợp tự nhiên và loại bỏ lớp mùn ngà. Các dung dịch bơm rửa nội nha gây ra hiệu quả cơ học và hóa học. Hiệu quả cơ học của các dung dịch bơm rửa được tạo ra bằng dòng chảy tới – lui của dung dịch bơm rửa trong quá trình bơm rửa và tạo hình ống tủy nhiễm khuẩn, làm giảm đáng kể số lượng vi khuẩn (10,11). Nghiên cứu cho thấy dung dịch bơm rửa có đặc tính kháng khuẩn có hiệu quả nhiều hơn rõ ràng trong việc làm giảm và loại bỏ vi khuẩn khi so sánh với dung dịch nước muối (11,12).
Thế nào là đặc tính lý tưởng của một dung dịch bơm rửa?
Để làm sạch và khử khuẩn hiệu quả hệ thống ống tủy, một dung dịch bơm rửa phải có khả năng khử khuẩn và thâm nhập được vào ngà răng và ống ngà, đem lại hiệu quả kháng khuẩn lâu dài (sau quá trình rửa), loại bỏ mùn ngà và không có tác dụng kháng nguyên, không độc và không gây ung thư. Thêm vào đó, nó phải không gây tác dụng có hại trên ngà răng hoặc lên khả năng kín khít của vật liệu hàn (7). Hơn nữa, nó phải tương đối rẻ tiền, tiện dụng và không gây đổi màu răng (7) Một số đặc tính đáng chú ý khác của một dung dịch bơm rửa lý tưởng bao gồm khả năng hòa tan mô tủy và khử hoạt tính nội độc tố (13).
Các dạng, ưu điểm và nhược điểm của các dung dịch bơm rửa hiện tại?
Các dung dịch bơm rửa hiện đang được sử dụng trong quá trình bơm rửa và tạo hình có thể chia thành hoạt chất kháng khuẩn và khử canxi hoặc kết hợp cả hai. Chúng bao gồm: Natri hypochlorite (javen – NaOCl), chlorhexidine, axit ethylenediaminetetraacetic (EDTA), hỗn hợp của tetracycline, một loại axit và chất tẩy (MTAD).
Natri hypochlorite (NaOCl)
Natri hypochlorite (chất tẩy rửa nội trợ) là dung dịch bơm rửa ống tủy được sử dụng phổ biến nhất. Nó là loại chất sát trùng, bôi trơn rẻ tiền được pha loãng với nồng độ từ 0,5% tới 5,25%. Clo tự do trong NaOCl hòa tan mô sống và mô hoạt từ bằng cách phá vỡ protein thành các amino axit (14). Giảm nồng độ dung dịch làm giảm độc tính, giảm tác dụng kháng khuẩn và khả năng hòa tan mô (14). Tăng thể tích hoặc làm ấm dung dịch làm tăng hiệu quả bơm rửa (14).
Ưu điểm của NaOCl bao gồm khả năng hòa tan chất hữu cơ có mặt trong hệ thống ống tủy và chi phí rẻ. Nhược điểm chính của dung dich bơm rửa này đó là độc tính của nó khi đi vào mô quanh cuống, mùi vị khó chịu, khả năng tẩy quần áo và khả năng ăn mòn kim loại (15). Hơn nữa, nó không thể diệt tất cả các loại vi khuẩn (12, 16-18) cũng như loại bỏ tất cả lớp mùn ngà (19). Nó cũng ảnh hưởng tới đặc tính của ngà răng (20,21). Kết quả của nghiên cứu in vitro gần đây cho thấy nồng độ bơm rửa hiệu quả nhất là 5,25% trong 40 phút, trong khi đó dung dịch bơm rửa với nồng độ 1,3% và 2,5% cùng khoảng thời gian không có hiệu quả trong việc loại trừ E.faecalis trong trụ ngà bị nhiễm khuẩn (22). Dựa trên kết quả của nghiên cứu này, các tác giả đưa ra khuyến cáo sử dụng thêm các dung dịch bơm rửa khác để tăng hiệu quả kháng khuẩn trong suốt quá trình làm sạch và tạo hình ống tủy.
Natri hypochlorite thường được dùng ở dạng hoạt động trên lâm sàng. Để đạt được trọn vẹn hoạt tính kháng khuẩn, nó phải ở trạng thái mới nhất trước khi sử dụng (23,24). Tuy nhiên trong phần lớn các trường hợp, nó thường được bán trong chai lớn và bảo quản ở nhiệt độ phòng khi có cơ hội tiếp xúc với oxy trong thời gian dài. Dung dịch tiếp xúc thời gian dài với oxy, nhiệt độ phòng và ánh sáng có thể khử hoạt tính đặc trưng của nó (24).
Sự rò rỉ NaOCl ra mô quanh cuống (Hình 5a và 5b) có thể gây nên tổn thương nghiêm trọng cho bệnh nhân. (25,26). Để giảm thiểu tai nạn do NaOCl, kim bơm rửa phải đặt ngắn hơn chiều dài làm việc, hơi lỏng trong ống tủy và dung dịch phải được đưa vào nhẹ nhàng. Liên tục đưa đầu kim lên và xuống trong suốt quá trình bơm rửa ngăn chặn việc mắc kim trong ống tủy và giúp bơm rửa tốt hơn. Sử dụng đầu kim bơm rửa với lỗ mở bên thân kim giảm khả năng đẩy dung dịch vào mô vùng cuống. Điều trị những ca tai nạn với NaOCl bằng cách giảm đau và theo dõi thường xuyên bệnh nhân cũng như kê thuốc kháng sinh và giảm đau.
Hình 5a: NaOCl vô ý chạm tới mô nha chu qua lỗ chóp chân răng của răng nanh hàm trên bên phải trong quá trình bơm rửa và tạo hình.
Hình 5b: Hiện tượng khối máu tụ và sưng phồng không cần điều trị. Tái bản lại với sự cho phép từ cuốn Endodontics: Principles and Practive 4th ed, Torabinejad and Walton, 2009.
Chlohexidine
Chlohexidine gluconate được sử dụng trong vòng 50 năm qua để phòng ngừa sâu răng, trong điều trị nha chu và là một loại nước súc miệng sát khuẩn (28).
Nó có tác dụng kháng khuẩn phổ rộng, kéo dài và ít độc tính (14). Nhờ các đặc tính này, nó cũng được khuyến cáo sử dụng như một dung dịch bơm rửa tiềm năng (14,27). Ưu điểm chính của chlohexidine so với NaOCl đó là độc tính thấp hơn và không có mùi hay vị khó chịu. Tuy nhiên, không giống như NaOCl, nó không thể hòa tan vật chất hữu cơ và mô hoại tử có mặt trong hệ thống ống tủy. Thêm vào đó, giống như NaOCl, nó không có khả năng tiêu diệt tất cả vi khuẩn và không loại bỏ được mùn ngà (29,30).
Ethylenediamineetetraacetic acid (EDTA)
Tác nhân chelat như EDTA, axit citric và tetracycline được dùng để loại bỏ mùn ngà (7). NaOCl là một loại dung dịch phụ gia để loại bỏ các thành phần hữu cơ còn lại. Bơm rửa với EDTA 17% trong vòng 1 phút sau đó rửa lại với NaOCl là phương pháp được khuyến cáo phổ biến nhất để loại bỏ mùn ngà (14). Tiếp xúc lâu hơn với EDTA gây nên loại bỏ quá mức cả ngà quanh ống và trong ống (31). EDTA có rất ít hoặc không có hiệu quả kháng khuẩn (32).
MTAD
Một lựa chọn khác thay cho EDTA trong việc loại bỏ mùn ngà đó là dung dịch BioPure MTAD (DENTSPLY Tulsa Dental Specialties, Tulsa, Okla.), là hỗn hợp của đồng phân tetracycline, một loại axit (axit citric) và một chất tẩy rửa (33). MTAD được sử dụng để bơm rửa sau cùng giúp sát khuẩn hệ thống ống tủy và loại bỏ mùn ngà. Hiệu quả của MTAD trong việc loại bỏ hoàn toàn mùn ngà (Hình 6) được tăng cường khi sử dụng NaOCl ở nồng độ thấp (1,3%) trong ống tủy trước khi bơm rửa 1ml MTAD trong ống tủy trong vòng 5 phút và súc sạch với 4ml MTAD sau cùng (33). Nó hơn CHX trong hoạt tính kháng khuẩn (30). Hơn nữa, nó có tác dụng kháng khuẩn kéo dài, tương hợp sinh học và tăng cường khả năng dán dính (34). Bảng 1 cho thấy ưu điểm và nhược điểm của các dung dịch bơm rửa sử dụng trong quá trình điều trị tủy.
Công cụ và kĩ thuật bơm rửa
Trong nhiều năm, các phương pháp đa dạng được đề xuất và phát triển để bơm rửa ống tủy hiệu quả hơn trong việc loại bỏ mảnh vụn và vi khuẩn từ hệ thống ống tủy. Các kĩ thuật này có thể phân loại thành hai nhóm lớn: chuyển động thông thường và chuyển động xoay (34). Kĩ thuật chuyển động thông thường bao gồm bơm rửa với kim, bàn chải nội nha, và chuyển động động lực học với file hoặc con gutta-percha. Kĩ thuật chuyển động xoay bao gồm bàn chải nội nha xoay, bơm rửa liên tục trong quá trình sửa soạn, rung âm và siêu âm, tạo áp lực âm trong quá trình bơm rửa hệ thống ống tủy. Sử dụng những phương pháp này tạo hiệu quả làm sạch tốt hơn khi so sánh với bơm rửa bằng kim tiêm thông thường. Tuy nhiên, không có bằng chứng rõ ràng liên quan tới hiệu quả lâm sàng tốt hơn của những công cụ này. Dữ liệu lâm sàng là cần thiết để hỗ trợ sử dụng các công cụ trong nôi nha.
Lasers
Một số nhà nghiên cứu báo cáo rằng laser có thể sử dụng để làm bay hơi mô trong ống tủy chính, loại bỏ mùn ngà và mô bẩn ở phần chóp của ống tủy (7). Một vài nhà nghiên cứu cho biết hiệu quả của laser phụ thuộc vào nhiều yếu tố bao gồm cường độ lực, thời gian tiếp xúc, khả năng hấp thụ ánh sáng của mô, hình thái học của ống tủy và khoảng cách giữa đầu dụng cụ tới điểm tác dụng (35-37). Hiệu quả của laser trong việc làm sạch hoàn toàn các phần sót lại trong ống tủy cần được xem xét. Khó khăn chính vẫn là xâm nhập vào khoảng không ống tủy nhỏ với cây thăm dò laser tương đối lớn và giá cả đắt đỏ.
Hình 6: Hình ảnh trên kính hiển vi điện tử quét ống ngà sau khi loại bỏ lớp mùn ngà nhờ MTAD.
Bảng 1
Ưu điểm và nhược điểm của các dung dịch bơm rửa đang được sử dụng
Đặc tính |
MTAD |
NaOCl |
CHX |
EDTA |
Khả năng bảo quản
ổn định |
+ |
– |
+ |
+ |
Hoạt tính
kháng khuẩn |
+ |
+ |
+ |
+ |
Khả năng loại bỏ mùn ngà |
+ |
– |
– |
+ |
Tương hợp sinh học |
+ |
– |
+ |
+ |
Khả năng hòa tan mô tủy |
+ |
+ |
– |
+/- |
Đặc tính xử lý mô ngà |
+ |
– |
– |
+ |
Hiệu quả tích cực trong hàn ống tủy |
+ |
– |
– |
+/- |
Hiệu quả tiêu cực tới cấu trúc ngà |
– |
+ |
– |
+ |
Tăng cường đáp ứng miễn dịch tại chỗ |
+ |
– |
– |
– |
Thời gian sử dụng (phút) |
5 (18) |
40 (22) |
? |
1 (31) |
Do các dung dịch và kĩ thuật hiện tại không thể loại bỏ hoàn toàn tất cả các chất kích thích, hòa tan tất cả mô hữu cơ hoặc mùn ngà, nên các phương pháp được sử dụng để thực hiện bơm rửa hiệu quả hơn tới chiều dài làm việc. Các phương pháp này bao gồm rung âm và siêu âm cùng như các dụng cụ tạo áp lực âm để đẩy mảnh vụn trong quá trình sửa soạn ống tủy.
Hệ thống EndoVac
Hệ thống EndoVac (Discus Dental, Culver City, Calif.) là hệ thống bơm rửa mới bao gồm đầu thụt rửa gắn với 1 kim tiêm chứa dung dịch bơm rửa và nguồn sục tốc độ cao. Do có ống dò đặt trong ống tủy, áp lực âm đẩy dung dịch bơm rửa từ nguồn tới buồng tủy xuống tới ống tủy qua đầu ống dò, sau đó từ ống dò dược đẩy ra ngoài qua vòi sục (38). Các nhà nghiên cứu so sánh hiệu quả của bơm rửa bằng hệ thống EndoVac với hệ thống bơm rửa bằng kim để làm sạch ống tủy ở trên độ dài làm việc 1-3mm cho thấy không có sự khác biệt giữa 2 nhóm ở mức 3mm. Tuy nhiên, kết quả cũng cho thấy kết quả loại bỏ mô tổn thương ở mức 1mm sử dụng EndoVac tốt hơn rõ ràng so với bơm rửa bằng kim (38).
Một nghiên cứu in vitro gần đây so sánh 3 phương tiện chuyển động và 2 công cụ bơm rửa với chuyển động siêu âm để loại bỏ cơ học vi khuẩn từ ống tủy mô phỏng bằng nhựa dẻo được sửa soạn tới size 35 với độ thuôn 0.06 (39). Kĩ thuật bơm rửa và chuyển động được đánh giá ở đây là chuyển động siêu âm, kim bơm rửa, bơm rửa EndoVac, EndoActivator (DENTSPLY Tulsa Dental Specialties, Tulsa, Okla), E file (Plastic Endo, Lincolnchire, III) và chuyển động âm. Dựa trên kết quả của nghiên cứu này, các tác giả kết luận chuyển động siêu âm có hiệu quả đáng kể hơn bơm rửa bằng kim và bơm rửa EndoVac trong việc loại bỏ vi khuẩn trong ống tuỷ. Siêu âm, EndoActivator, F flie và chuyển động âm có khả năng như nhau trong việc loại bỏ vi khuẩn trong ống tủy mô phỏng bằng nhựa dẻo. Những điều này chỉ ra tầm quan trọng của sử dụng dung dịch bơm rửa sát khuẩn cùng với rung cơ học và công cụ có áp suất âm trong suốt quá trình làm sạch và sửa soạn ống tủy. Kết quả của các nghiên cứu in vitro hiện tại sử dụng kết hợp công cụ cơ học và hóa học để khử trùng ống tủy cho thấy sử dụng MTAD với hệ EndoActivator trong vòng 15 phút là cách hiệu quả để kìm hãm sinh E.faecali sinh trưởng (40).
Thuốc đặt nội nha
Thuốc đặt nội nha có tác dụng khử trùng ống tủy giữa các buổi hẹn và giảm đau giữa các buổi hẹn (7). Các chất khử khuẩn có thể chia thành hợp chất phenol như camphorated monochlorophenol, cresatin, aldehyde như formocresol và glutaraldehyde, và halid, cũng như các loại khác như canxi hydroxit và một số kháng sinh (14). Những hợp chất này là các tác nhân kháng khuẩn tiền năng trong điều kiện thử nghiệm tại labo, nhưng hiệu quả của nó trên lâm sàng là khó đoán (7). Một số dẫn xuất của aldehyde có mục đích trung hoàn các phần trong ống tủy để làm cho chúng mất hoạt tính. Chúng có thể sử dụng để điều trị các mô sống khi nghiên cứu mô học, nhưng chúng có thể không hiệu quả khi điều trị mô hoại tử hoặc mô đã phân hủy. Theo một báo cáo (41), mô đã được điều trị không mất hoạt tính và có thể trở nên độc và trở thành kháng nguyên sau quá trình điều trị. Thuốc đặt nội nha cũng được sử dụng trên lâm sàng để ngăn ngừa đau sau điều trị. Tuy nhiên các nghiên cứu cho thấy sử dụng chúng định kì như một chất đặt trong ống tủy không có hiệu quả rõ rệt trong phòng tránh đau (7).
Canxi hidroxit
Canxi hidroxit là một chất ức chế vi khuẩn phát triển trong ống tủy (42). Hiệu quả kháng khuẩn của Ca(OH)2 do nó có pH kiềm. Nó cũng hòa tan mô tồn đọng hoại tử và vi khuẩn cũng như sản phẩm phụ của chúng (43). Nó có thể sử dụng dưới dạng bột khô, bột trộn với dung dịch như nước, nước muối, thuốc tê hay glycerin hoặc dạng paste chuyên dụng trong bơm tiêm (14). Vì Ca(OH)2 có độc tính nên nó phải được đặt vào ống tủy bằng file hoặc kim. Lượng vật liệu bị thoát ra mô quanh chóp có thể gây hoại tử mô và gây đau cho bệnh nhân. Ca(OH)2 có thể lấy ra khỏi ống tủy bằng sử dụng dung dịch bơm rửa như nước muối, NaOCl, EDTA hoặc MTAD.
Corticosteroid
Corticosteroid là hoạt chât kháng viêm được chủ trương sử dụng như một chất đặt ống tủy để làm giảm đau sau điều trị (45). Một nghiên cứu trên động vật cho thấy sự giảm tế bào viêm nhiễm ở mô quanh cuống sau khi dexamethasone thâm nhiễm trên màng xương tới ngách miệng của chuột (46). Không có bằng chứng lâm sàng đáng chú ý cho thấy chúng có hiệu quả với bệnh nhân có cường độ đau cao (47). Sử dụng corticosteroid ở bệnh nhân với viêm tủy không hồi phục và viêm quanh cuống có triệu chứng (viêm quanh cuống cấp) có thể có hiệu quả (45,48).
Chlorhexidine gel
Gel CHX 2% gần đây được dùng như một chất đặt ống tủy (49). Nó có thể được dùng một mình dạng gel hoặc trộn với Ca(OH)2. Khi sử dụng trong vòng 7 ngày trên xương bò (50) hoặc xương người (51), gel CHX có hoạt tính kháng khuẩn trên 21 ngày sau khi bị nhiễm khuẩn. Khi sử dụng dạng kết hợp với Ca(OH)2, hoạt tính kháng khuẩn của hỗn hợp này tốt hơn dạng kết hợp của Ca(OH)2 và nước muối (52).
Tổng kết
Vi khuẩn là nguyên nhân chính của bệnh lý tủy và quanh cuống. Hệ thống ống tủy phức tạp, sự xâm lấn của các vi khuẩn trong ống ngà, sự hình thành mùn ngà trong quá trình sửa soạn và mô ngà là những cản trở chính trong việc loại bỏ hoàn toàn vi khuẩn trong quá trình làm sạch và tạo hình hệ thống ống tủy. Số lượng vi khuẩn trong ống tủy nhiễm khuẩn có thể giảm đáng kể khi bơm rửa bằng nước muối; tuy nhiên, dung dịch bơm rửa kháng khuẩn có hiệu quả loại bỏ vi khuẩn rõ ràng khi so sánh với nước muối. Dung dịch bơm rửa hiện tại đang sử dụng trong quá trình bơm rửa và tạo hình bao gồm NaOCl, CHX, EDTA và MTAD. Không có chất nào trong số kể trên có tất cả đặc tính của dung dịch bơm rửa lý tưởng. Rung âm và siêu âm sử dụng đơn độc hoặc phối hợp với dung dịch bơm rửa kháng khuẩn cũng như các dụng cụ tạo áp lực âm được sử dụng để tăng hiệu quả của các dung dịch bơm rửa này. Đặt thuốc nội nha có thể dùng để khử trùng ống tủy và giảm đau giữa các buổi hẹn. Các thuốc đặt nội nha chính hiện được sử dụng đó là Ca(OH)2 và CHX. Công cuộc tìm kiếm vật liệu lý tưởng và/hoặc kĩ thuật để làm sạch hoàn toàn ống tủy nhiễm khuẩn vẫn đang tiếp diễn.
Tài liệu tham khảo
Xem trong văn bản gốc
https://www.aae.org/uploadedfiles/publications_and_research/endodontics_colleagues_for_excellence_newsletter/rootcanalirrigantsdisinfectants.pdf